GIÁO DÂN THỜI GIÁO HỘI SƠ KHAI

Những viên gạch xây dựng một nền thần học giáo dân

(The Laity In The Early Church: Building Blocks For A Theology Of The Laity)

Lm Phan Đình Cho Chuyển ngữ: Trần Duy Nhiên

 

 (tiếp theo số 36)

Từ khác biệt đến bất bình đẳng: Nghi thức phụng vụ đặt tay cho hàng giáo sĩ.

Bất chấp lời khẳng định mạnh mẽ của Justinô và Tertulianô về chức tư tế do phép rửa của giáo dân và quyền bình đẳng giữa họ với hàng giáo sĩ trong Giáo Hội, vào giữa thế kỷ thứ ba, sự khác biệt giữa giáo dân và giáo sĩ đã dần dần biến thành sự bất bình đẳng: giáo dân thấp kém hơn giáo sĩ. Chúng ta đã lưu ý trước đây về sự thấp kém của nữ giáo dân so với nam giáo dân trong thần học của Tertulianô. Ở đây, ngay cả nam giáo dân cũng bị xem là thấp kém so với giáo sĩ như vậy. Khuynh hướng này bắt đầu với Origen (185-254). Ông lý luận rằng giáo sĩ cao trọng hơn giáo dân bởi vì họ có quyền tha tội cho giáo dân. Sự cao trọng trong địa vị được chuyển sang một nếp sống tinh thần: giáo dân được tái hôn khi vợ mình đã qua đời, trong khi đó thì giáo sĩ không được phép tái hôn. Hơn nữa, thừa tác vụ dạy dỗ với tư cách là thầy giảng hay kinh sư, mà vào thế kỷ thứ ba vẫn do giáo dân đảm nhiệm (Clêmentê thành Alexandria và chính Origen từng là thầy giảng trước khi trở thành linh mục năm 230), bắt đầu thu hẹp lại vào hàng giáo sĩ.

 

Sự phân biệt giữa giáo sĩ và giáo dân được xác định qua quyết định của giáo luật và phụng vụ vào thế kỷ thứ ba trong một văn kiện quan trọng được xem là Truyền Thống các Tông Đồ, mà tác giả là một linh mục La Mã, thánh Hippolite (170-236). Văn kiện này cực kỳ quan trọng vì nó mô tả nghi lễ được cử hành tại Rôma vào thế kỷ thứ ba. Qua văn kiện này, rõ ràng là sự phân biệt giữa giáo sĩ và giáo dân được hình thành qua phụng vụ. Một giáo dân muốn trở thành giáo sĩ thì phải thông qua nghi lễ đặt tay, còn được gọi là ‘ordinatio’ (mà trong từ vựng Việt Nam hiện nay gọi là: lễ nghi phong chức): Việc đặt tay (keirotonia) được dành cho giáo sĩ (kleros) để cử hành phụng vụ (leitourgia).” Việc đặt tay này được dành cho những ai được phân công cử hành phụng vụ hay ‘hy lễ’ (nghĩa là bí tích Thánh Thể), đấy là giám mục, linh mục và phó tế. Những tác vụ khác trong phụng vụ, ví dụ các nhiệm vụ của một góa phụ, một trinh nữ, một người giảng dạy, đọc sách hay chữa bệnh, thì không được phép hay đòi buộc đặt tay. Điều cần thiết cho các tác vụ này là nghi lễ ‘bổ nhiệm’ hay ‘nhậm chức’.

 

Những giáo dân nào được đặt tay để cử hành phụng vụ? Trong khi cuốn Truyền thống các Tông Đồ không nhắc gì đến phụ nữ, thì một tài liệu khác, tập Didascalia Apostolorum (Giáo Huấn các Tông Đồ), cũng được viết vào thế kỷ thứ ba bằng tiếng Hy Lạp, nhưng chỉ còn lại bản tiếng Syria, có đề cập đến nữ phó tế. Tập này kêu gọi Kitô hữu tôn kính giám mục vì đối với anh em, giám mục giữ vị trí của Thiên Chúa Tối Cao. Phó tế giữ vị trí của Chúa Kitô nên anh em phải yêu mến họ. Anh em cũng phải yêu mến các nữ phó tế, là những người giữ vị trí của Chúa Thánh Thần. Đối với anh em, những trưởng lão (linh mục) đại diện cho các tông đồ.’ [7]

 

Một trường hợp đáng chú ý khác là trường hợp của người tuyên xưng, nghĩa là một Kitô hữu bị bắt hoặc bị giam cầm hay xử phạt bằng một hình thức nào đó (chứ không chỉ bị nhạo báng mà thôi) vì đức tin Kitô giáo trong thời kỳ bách hại và tuyên xưng đức tin mình. Theo Truyền Thống các Tông Đồ: Nếu một người tuyên xưng từng bị bắt nhân danh Chúa, thì không được đặt tay trên người đó để phong chức phó tế hay chức linh mục, bởi lẽ người tuyên xưng đã được vinh dự hưởng chức linh mục nhờ việc tuyên xưng của mình. Nhưng nếu người tuyên xưng đó được tấn phong giám mục, thì cần phải đặt tay trên người đó.” [8] Mặc dù chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng người tuyên xưng là một người nam, và nhiều dịch giả sử dụng đại từ giống đực để chỉ định người tuyên xưng, chúng ta biết rằng không chỉ người nam mà người nữ cũng bị bắt giam vì đức tin và đã tuyên xưng đức tin mình. Do đó, phụ nữ ‘cũng đã được vinh dự hưởng chức linh mục nhờ việc tuyên xưng của mình’.

Giáo sĩ như một giai cấp trong Giáo Hội và trong xã hội và thân phận giáo dân như là một hình phạt.

Cho đến đầu thế kỷ thứ IV, Kitô giáo là một tôn giáo ngoài vòng pháp luật và thỉnh thoảng xảy ra những cuộc bách hại đẫm máu đối với Kitô hữu. Tuy nhiên, cùng với việc trở lại của hoàng đế Constantin (274 hay 288-337) và với Sắc Chỉ Milan năm 313, Kitô giáo thoạt đầu được thừa nhận và, rất nhanh sau đó, dưới triều hoàng đế Theodore I (379-395), trở thành tôn giáo duy nhất được công nhận và là quốc giáo.

Tư cách pháp nhân mới đã đem đến những thay đổi vô cùng to lớn trong tổ chức Kitô giáo. Một mặt, quyền bính chính trị bắt đầu len lỏi vào đời sống giáo hội. Hoàng đế Constantin, dù chỉ nhận phép rửa khi hấp hối, vẫn tin rằng giáo hội và chính quyền phải được liên kết càng chặt chẽ càng hay. Được giám mục Xêsarê là Eusebiô tuyên dương là ‘vị tông đồ thứ mười ba’ và ‘giám mục ngoại vụ’, Constantin triệu tập các công đồng giáo hội - ở Arles năm 314 và tại Nicê năm 325 – và ban cho giáo hội rất nhiều đặc quyền đặc lợi. Mặt khác, tổ chức giáo hội mau chóng rập khuôn tổ chức chính quyền. Dần dần, thế giá và quyền hạn của giám mục sánh đôi với thế quyền trên lãnh thổ mà mình cai quản. Như vậy, một giám mục tại trung ương sẽ giám sát những gì xảy ra trong lãnh thổ của các giám mục trong khu vực ấy, và từ đó bắt đầu có‘phẩm trật’(cấp bậc) giữa các giám mục.

Một trong các hệ quả đau buồn của việc sắp xếp này, ấy là một giám mục của một giáo phận nhỏ và nghèo có thể bị cám dỗ phải xoay sở để được chuyển đến một tòa giám mục danh giá và giàu có hơn, và thế là người ta đã tháo gỡ mối dây – tương tự như giữa hai vợ chồng – nối kết giám mục với dân mình trong giáo phận. Hơn nữa, các giám mục bắt đầu được xem như là các ‘ông hoàng’ với đầy đủ quyền hành chính trị trần thế. Và càng ngày càng xảy ra việc các giám mục được hoàng đế bổ nhiệm và cùng chia sẻ cái ‘gần như thần quyền’ (quasi-divine authority) của hoàng đế. Quyền bính trong giáo hội trở thành quyền bính (mang tính chất) đạo, và các Kitô hữu phải phục vụ cho quyền bính đó, thay vì quyền bính đó là để phục vụ cho dân Chúa.

Một hệ quả tồi tệ khác của bước ngoặt do Constantin đem đến trong giáo hội ấy là giáo sĩ chẳng những trở thành một tầng lớp trong giáo hội mà còn là một giai cấp trong xã hội. Phẩm trật với ba cấp bậc – giám mục, linh mục và phó tế - trở thành cái thang để bước lên trong quyền hành và vinh dự; và địa vị giáo sĩ trở thành một sự nghiệp có nhiều bậc thang, mà bậc dưới tiến lên bậc trên thông qua một quá trình ‘thăng quan tiến chức’ (promotion). Hơn nữa, trong lãnh vực kinh tế chính trị, giáo sĩ là một giai cấp hưởng những đặc quyền vô cùng to lớn. Giáo sĩ cũng như vợ họ, các nô lệ đã được giải phóng của họ, và những đầy tớ họ đều được miễn nhiều bổn phận công cộng và đóng thuế. Trong hoàn cảnh như thế, không ngạc nhiên gì một số người gia nhập hàng giáo sĩ vì những động cơ không cao thượng tí nào.

Một kết quả đáng tiếc nữa, ấy là hạ thấp địa vị của giáo dân trong giáo hội, mà sự phân biệt với giáo sĩ không chỉ thể hiện qua những nghi lễ phụng vụ, như đã thấy trên, mà con ở đẳng cấp kinh tế, xã hội và chính trị. Thái độ xem thường giáo dân được thấy rõ qua hình phạt dành cho giáo sĩ khi có hành vi xấu. Hình phạt ấy là ‘thu hẹp’, hay ‘truất quyền’ hay ‘giáng chức’ hay ‘hạ bậc’ từ địa vị giáo sĩ xuống bậc sống giáo dân. Như thế, bậc giáo dân là cấp bậc thấp nhất trong giáo hội, một bậc sống nhục nhã, tệ hơn cả vạ tuyệt thông, bậc sống mà một giáo sĩ bị phạt phải sống nếu trót phạm một hành vi tội lỗi!

Ơn gọi đan tu và việc giáo sĩ hóa ơn gọi ấy.

Như một phản ứng đối với việc tục hóa quá độ của giáo hội từ thời Constantin, một số giáo dân nam nữ khai sinh một phong trào ‘ẩn lánh’ khỏi thế gian để đi vào sa mạc tìm kiếm sự trọn lành cho đời sống Kitô hữu. Người nam được gọi là ẩn sĩ (mà trong tiếng Anh và tiếng Pháp có hai thuật ngữ gồm: anchorite / anachorète – do từ ngữ Hy lạp anachoreo, nghĩa là ‘rút lui, ẩn lánh’; hermit/ermite – do từ ngữ Hy Lạp eremitai, nghĩa là‘người ở sa mạc’) và tu sĩ(cebonite/cébonite– do hai từ ngữ Hy Lạp koino[cộng đoàn] + bios[sống], nghĩa là những người sống cộng đoàn); còn người nữ thì gọi là ‘đồng trinh’. Phong trào đan tu này bắt đầu từ miền Bắc Ai Cập với những khuôn mặt nổi bật như An tôn (251-356) và Pacômiô (290-346), tiếp theo là Basil Xêsarê (330-370), và sau này phong trào ấy chuyển qua phương tây với Martinô thành Tours (335-397) và Biển Đức thành Nursia (480-550).

Dù khởi thủy là một sáng kiến của giáo dân, thì chẳng bao lâu sau, phong trào đan tu đã được giáo sĩ hóa. Lý do thì nhiều. Một trong các lý do là vì những cộng đoàn tu sĩ giáo dân này thường ở xa các giáo xứ nhưng cần lãnh nhận bí tích, nên đòi hỏi phải tấn phong cho ít ra một vài tu sĩ. Hơn nữa, do tiếng thơm về sự thánh thiện và tinh thần phục vụ xã hội của họ, các cộng đoàn này lôi cuốn đến quanh mình các cộng đồng không sống đời sống đan tu, vì thế các đan sĩ phải phục vụ họ bằng thừa tác vụ linh mục. Thêm vào đó, do sự thánh thiện của họ, một số đan sĩ được phong linh mục, đôi khi ngược với ý muốn của mình, như là một phần thưởng và một sự công nhận địa vị thiêng liêng của họ. Cuối cùng, các giám mục, được soi sáng bởi uy tín và ảnh hưởng của phong trào đan tu, nên bắt đầu khuyên giáo sĩ hành xử như các đan sĩ. Hệ quả là dần dần càng có nhiều đan sĩ trở thành linh mục, và càng nhiều linh mục sống theo đời sống đan tu. Điều khởi sự như một phong trào giáo dân đã kết thúc bằng cách biến địa vị giáo dân thành một địa vị thấp hèn: bấy giờ, lý tưởng cao nhất của đời sống Kitô hữu là trở nên tu sĩ hay linh mục, và tốt nhất là vừa tu sĩ vừa linh mục.

Vai trò nam giáo dân thuở ấy như thế nào?

Cần phải lưu ý đến từ ‘nam’ trong câu hỏi trên. Ta chỉ tập trung vào Kitô hữu phái nam mà thôi, bởi lẽ vai trò nữ giáo dân thật mờ nhạt trong giáo hội sơ khai. Mãi đến thế kỷ thứ tư thì thuật ngữ giáo dân mới minh nhiên áp dụng cho người nữ. Ngay cả Tertulianô, người từng khẳng định rằng giáo dân có thể cử hành Thánh Thể khi thiếu vắng linh mục, thì cũng dứt khoát xác nhận: “người nữ không được lên tiếng trong nhà thờ, hoặc rửa tội, hoặc dâng lễ, hoặc đòi hỏi quyền làm một nhiệm vụ gì mà người nam làm, nhất là thừa tác vụ tư tế.”[9] Hơn nữa, tập Didascalia Apostolorum, khi nói về việc bổ nhiệm các góa phụ hay phong chức cho nữ phó tế, thì cũng xác nhận: “chúng ta không cho phép người nữ hoặc rửa tội cho ai hoặc chịu rửa tội từ tay một người nữ.”[10] Nữ phó tế tham dự nghi lễ rửa tội chỉ xức dầu cho người nữ được rửa tội; còn chính bí tích rửa tội thì phải được thực thi do giám mục, hoặc linh mục, hoặc một nam phó tế. Người nữ cũng không được phép làm nhiệm vụ giảng dạy. Đúng ra, phải nói rằng trong Giáo Hội sơ khai, nữ giáo dân không có một vai trò đặc biệt nào trong Giáo Hội. Nếu có những nhiệm vụ đặc biệt nào được dành cho họ, ấy là do hoàn cảnh đặc thù của họ là góa phụ hay đồng trinh.

Thế thì bổn phận của nam giáo dân là gì? Chúng ta đã thấy rằng, ít ra cho đến thế kỷ thứ ba, nam giáo dân có thể dạy dỗ với tư cách là thầy giảng hay thầy dạy (kinh sư). Họ cũng có thể được bổ nhiệm như là phó-trợ-tá hay người đọc sách trong phụng vụ. Vì một trong các đặc sủng của họ là chữa bệnh nên họ cũng có thể trừ quỷ. Trong những thế kỷ đầu, một số nhiệm vụ khác cũng được mở rộng cho giáo dân, cho người nam và trên lý thuyết cho cả người nữ nữa, bao gồm nhiệm vụ làm cha mẹ đỡ đầu cho người tân tòng, dự phần vào việc nhận những kẻ đã đền tội vào lại cộng đoàn, có tiếng nói trong việc chọn hàng giáo sĩ và đặc biệt là bầu giám mục; họ cũng được tham khảo trong những tranh luận thần học quan trọng. Tuy nhiên, qua dòng thời gian, những nhiệm vụ ấy bắt đầu bị rút đi khỏi tay giáo dân hay mất ý nghĩa đích thực của chúng. Dù sao, cũng còn một nhiệm vụ vẫn tồn tại mãi cho giáo dân, ấy là đóng góp để bồi dưỡng cho hàng giáo sĩ. Ngoài vâng lời và phục tùng hàng giáo sĩ (tôn vinh giáo sĩ), giáo dân còn phải trợ giúp tài chánh cho họ. Không phải là quá đáng nếu bảo rằng về mặt xã hội, trong Giáo Hội tiên khởi, giáo dân là thành phần nam Kitô hữu có khả năng tài chánh để cấp dưỡng cho giáo sĩ.

Hướng đến nền thần học hiện đại về giáo dân: chức tư tế do phép rửa.

Nhìn thoáng lại năm thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo ta thấy dần dần xuất hiện một thành phần Kitô hữu gọi là ‘giáo dân’, đồng thời có một sự xói mòn trầm trọng về phẩm giá và vai trò của họ trong giáo hội. Cũng nên tóm lược lại các giai đoạn của quá trình giáo dân mờ đi trong giáo hội sơ khai.

1.      Trong Tân Ước, không hề có sự phân chia Kitô hữu thành hai loại người mà sau này được gọi là ‘giáo sĩ’ và ‘giáo dân’, và loại đầu khác biệt với loại sau nhờ ‘chức tư tế’. Đúng ra, mọi Kitô hữu đều là tư tế do phép rửa tội, và đều bình đẳng chia sẻ chức tư tế duy nhất của Chúa Giêsu Kitô. Cũng nhờ phép rửa, qua đó các ơn Chúa Thánh Thần được thông truyền một cách đa dạng, Kitô hữu được kêu gọi thực thi những nhiệm vụ khác nhau và bổ túc cho nhau, những nhiệm vụ cần thiết cho sự sống của giáo hội.

2.      Vào khoảng cuối thế kỷ thứ nhất, khi giáo hội bắt đầu được tổ chức và cơ cấu hóa, một số nhiệm vụ cai trị và quản lý bắt đầu có tầm quan trọng, và những người thực thi các nhiệm vụ ấy được trao cho một chức tước như ‘giám mục’, ‘linh mục’ và ‘phó tế’, mặc dù những chức vị ấy không giống như những chức vị mà các thuật ngữ ấy chỉ định ngày hôm nay.

3.      Lần đầu tiên thuật ngữ giáo dân được sử dụng là do cuộc tranh dành quyền lực trong Hội Thánh Côrintô vào khoảng cuối thế kỷ thứ nhất. Một trong các vị lãnh đạo Hội Thánh tại Rôma, thánh Clêmentê, can thiệp bằng một bức thư để cố gắng giải quyết cuộc xung đột ấy bằng cách nại vào khái niệm tôn ti trật tự, nghĩa là trong giáo hội có những hạng người khác nhau và có những vai trò và nhiệm vụ khác nhau. Vai trò của giáo dân là tuân theo ‘luật lệ đặc biệt dành cho giáo dân’. Ngược lại với thượng tế, tư tế và Lêvi, giáo dân không được trao một vai trò tích cực nào; thay vào đó, giáo dân được định nghĩa một cách tiêu cực, qua việc họ phải chấp hành các lề luật đặt ra cho họ.

4.      Dù như thế, trong tác phẩm của Justinô và Tertulianô, hai ‘giáo dân’ của thế kỷ thứ ba, sự bình đẳng giữa giáo dân và giáo sĩ được khẳng định mạnh mẽ. Trên thực tế, Justinô chẳng để ý đến sự phân biệt. Tertulianô thừa nhận sự phân biệt này, nhưng khẳng định rằng giáo dân (dù không bao gồm nữ giáo dân) có thể và phải cử hành bí tích, gồm cả bí tích Thánh Thể, cho cộng đoàn khi thiếu vắng linh mục.

5.      Tuy nhiên, vào khoảng thế kỷ thứ ba, sự phân biệt giữa giáo sĩ và giáo dân được nêu rõ để cho thấy địa vị thấm kém của giáo dân so với giáo sĩ. Sự phân biệt này được xác định do nghi lễ và do giáo luật qua việc đặt tay hay phong chức cho hàng giáo sĩ.

6.      Với cuộc trở lại của Constantin và việc thiết lập Kitô giáo làm quốc giáo vào thế kỷ thứ tư, giáo sĩ - như một tầng lớp trong giáo hội - trở thành một giai cấp với rất nhiều đặc quyền về kinh tế và chính trị.

7.      Giờ đây, vai trò của giáo dân, từng bao quát trong ba thế kỷ đầu, đã bị thu hẹp hết sức. Thật vậy, giáo dân là thuật ngữ dùng để chỉ những nam giáo dân có khả năng tài chánh mà cấp dưỡng cho giáo sĩ. Nữ Kitô hữu, kể cả những người thuộc bậc goá phụ hay đồng trinh, không được phép thực thi những nhiệm vụ mà nam giáo dân được phép. Địa vị giáo dân trở thành hình phạt nặng nề nhất đối với những giáo sĩ nào thiếu tư cách và cần phải ‘giáng chức’ xuống bậc sống giáo dân.

8.      Vào khoảng giữa thế kỷ thứ tư,  một phong trào đan sĩ giáo dân trỗi dậy để chống lại việc tục hóa Kitô giáo và tìm kiếm sự trọn lành của nếp sống Kitô hữu. Tuy nhiên, dần dân phong trào giáo dân này được giáo sĩ đón nhận, vì thế càng ngày càng có nhiều đan sĩ trở thành linh mục và giám mục; và càng ngày càng có nhiều giáo sĩ sống nếp sống đan tu, đặc biệt là giữ tình trạng độc thân.

Qua việc hạ giá trường kỳ của bậc sống giáo dân, ngày nay ta phải làm thế nào để tìm lại gương mặt thật của giáo dân, cả nam lẫn nữ? Không cách nào khác hơn là trở về với tinh thần nội tại và những thực hành Phúc Âm theo đường hướng mà Giáo Hội đang và cần giải thích lại ngày hôm nay.

Chắc chắn rằng khái niệm căn bản nhất trong nền thần học Tân Ước về đời sống của Kitô hữu, dù là giáo dân hay giáo sĩ, là chức tư tế do phép rửa. Chức tư tế này biến một người thành Kitô hữu. Mọi Kitô hữu được trở thành tư tế do phép rửa và vì thế họ đều bình đẳng với nhau từ nền tảng. Chức tư tế này, do được tham dự vào chức tư tế của Chúa Giêsu Kitô, là phẩm giá cao nhất của mọi Kitô hữu. Không có một chức tư tế nào khác trong giáo hội cao trọng hơn chức tư tế này. Không có bậc sống Kitô hữu nào thánh thiện và cao cả hơn bậc sống này. Mọi nhiệm vụ và hoạt động trong giáo hội cần phải phục vụ và định hướng theo chức tư tế do phép rửa này.

Trên bình diện giáo hội học, thay vì hình tháp phẩm trật là:

Giáo Hoàng

Giám Mục

Linh Mục

Phó Tế

Giáo Dân,

ta nên theo lược đồ này:

Kitô hữu tư tế

Giáo Dân + Phó Tế + Linh Mục + Giám Mục + Giáo Hoàng,

với cấp bậc và giá trị cao nhất của chức tư tế là chức tư tế phổ quát (chung). Nhóm tư tế thừa tác, cùng chia sẻ chức tư tế phổ quát này, là một phân nhóm hay một phân nhánh (species) thuộc cùng một giống nòi (genus) căn bản. Nói cách khác, điều đem lại giá trị cho giáo dân, phó tế, linh mục, giám mục và giáo hoàng, chính là chức tư tế do phép rửa. Chức tư tế này khiến họ thực sự bình đẳng với nhau. Làm giáo dân, phó tế, linh mục, giám mục, hay giáo hoàng là những phương cách khác nhau và bình đẳng với nhau (trên bình diện thiêng liêng, chứ không phải là theo giáo luật) để thực thi chức tư tế do phép rửa, không hơn không kém.

Với tư cách là người công giáo, chúng ta phải xác nhận chức tư tế chung của mọi tín hữu’ và ‘chức tư tế thừa tác hay phẩm trật’ khác nhau ‘về yếu tính chứ không chỉ về mức độ’(Lumen Gentium, số 10). Trong chiều hướng này, chúng ta cũng cần nhấn mạnh, như trong sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, rằng ‘chức tư tế được phong hay thừa tác là để phục vụ cho chức tư tế do phép rửa’[11]. Do đó, nếu không có chức tư tế chung, thì không thể có chức tư tế thừa tác hoặc chức tư tế thừa tác không có lý do gì để tồn tại.

Hơn thế nữa, sự khác biệt về yếu tính’ và về ‘mức độ’ không hàm ý rằng chức tư tế thừa tác thì cao trọng hơn chức tư tế chung. Vatican II khẳng định sự phân biệt giữa hai chức tư tế này thì đồng thời minh định rằng ‘trong giáo hội, không phải ai cũng đi cùng một lối, dù cho mọi người đều được kêu gọi thánh hóa bản thân và đều lãnh nhận đặc ân đức tin bình đẳng với nhau qua sự công chính của Thiên Chúa(x. 2Pr 1,1). Dù theo ý định của Chúa Kitô, một số người được cắt đặt làm thầy dạy, người phân phối các mầu nhiệm và chăn dắt những người khác, tuy nhiên vẫn còn có sự bình đẳng đích thực giữa mọi người về mặt giá trị và hoạt động chung của mọi tín hữu trong quá trình xây dựng Thân thể Chúa Kitô’[12]

Như vậy, cần phải hiểu như thế nào về tương quan giữa hai chức tư tế? Trước hết, cần nhớ lại rằng các linh mục (hoặc chính xác hơn, ‘niên trưởng’ hoặc ‘trưởng lão’) và giám mục (giáo hoàng cũng là giám mục) đều là tư tế trước hết và trên hết nhờ chức tư tế do phép rửa. Chức tư tế thừa tác không hủy bỏ chức tư tế do phép rửa của họ. Trái lại, đấy là phương cách mà họ thực thi chức tư tế do phép rửa của mình và làm cho chức tư tế này sinh hoa kết quả. Chức tư tế thừa tác, được trao ban qua bí tích truyền chức thánh, không thêm một sự trọn lành mới hay một chiều kích mới cho chức tư tế do phép rửa của họ, cứ như thể là chức tư tế do phép rửa còn thiếu một điều gì.

Ngược lại với ngôn ngữ bình dân, bí tích truyền chức thánh không nâng người nhận lãnh bí tích ấy lên một ‘cấp bậc’ cao hơn, và cũng không ban cho họ (cho người nam, ít ra là trong truyền thống Công giáo La Mã và Chính Thống giáo) một sự ‘hiến thánh’ cao hơn sự hiến thánh đã được ban qua phép rửa. Theo thuật ngữ triết học, chức tư tế do phép rửa là cứu cánh, và chức tư tế thừa tác là phương tiện. Chức tư tế sau là công cụ để phục vụ cho chức tư tế trước. Với tư cách là phương tiện, chức tư tế thừa tác sẽ chấm dứt khi triều đại của Thiên Chúa được thể hiện viên mãn. Đấy chỉ là một công cụ không còn cần thiết khi thực tại mà nó phục vụ đã đạt đến mức trọn lành. Chắc chắn rằng công cụ này giúp linh mục/giám mục làm được những điều mà một giáo dân không thể làm được (ít ra là trong trường hợp bình thường, như lời Tertulianô), nhưng người linh mục cử hành thánh lễ không hề đem đến cho Thiên Chúa một cái gì tự bản chất là cao hơn, thánh thiện hơn, xứng đáng hơn về mặt thiêng liêng, so với một nam hay nữ giáo dân  cùng ‘cử hành’ Thánh lễ với linh mục ấy.

Do đó, sẽ không đúng nếu bảo rằng giáo dân phải phục vụ giáo sĩ (như người ta quen nói từ những thế kỷ đầu tiên cho đến thời gian gần đây, trong một nền giáo hội học hình tháp) hoặc bảo rằng giáo sĩ phải phục vụ giáo dân (như đôi khi nghe được từ những người đề xuất một nền giáo hội học dân chủ). Đúng ra, chúng ta phải nói rằng cả giáo dân lẫn giáo sĩ đều phục vụ, một cách bình đẳng, cho thực tại căn bản là chức tư tế do phép rửa. Như vậy, hệ quả là cả giáo dân lẫn giáo sĩ đều đủ tư cách để thực thi những việc phục vụ trong giáo hội, những việc không đòi hỏi bí tích truyền chức thánh (thực ra, rất ít nhiệm vụ quan trọng trong việc quản lý giáo hội đòi hỏi dứt khoát phải có chức thánh).

Nam giáo dân và đặc biệt là nữ giáo dân (bởi lẽ, như đã nói trên, người nữ nổi bật vì sự vắng bóng của họ trong giáo hội từ những thế kỷ đầu tiên) cần được tham gia vào những việc phục vụ và những trách nhiệm ấy ở mọi cấp bậc của giáo hội – giáo xứ, giáo phận, quốc gia, và tại Vatican. Chỉ có cách đó mới phá vỡ được nền văn hóa giáo sĩ với mạng lưới cổ lỗ sĩ, với những luật lệ kín mật và thái độ khinh thường giáo dân. Chỉ có cách đó thì giáo sĩ mới học cách cư xử với giáo dân với lòng tôn trọng và tinh thần trách nhiệm. Chỉ có cách đó mới biến giáo dân thành những người tham gia tích cực vào tiến trình đề ra quyết định của giáo hội. Chỉ có cách đó mới cải cách và canh tân giáo hội trong thời đại nhũng nhiễu này. Chỉ có cách đó mới tái khám phá được gương mặt đích thực của Chúa Giêsu. l

 

[1] Cuộc nghiên cứu kinh điển về giáo dân là do Yves Congar: Lay People in the Church: A Study for a Theology of Laity, do Donald Attwater dịch (Westminster, MD: Christian Classics, 1985). Những cuộc nghiên cứu gần đây hơn về giáo dân bao gồm: Rémi Parent, Church of the Baptized: Overcoming the Tension Between the Clergy and the Laity, do Stephen W. Arndt dịch (New York: Paulist Press, 1989); Alexandre Faivre, The Emergence of the Laity in the Early Church, do David Smith dịch (New York: Paulist Press, 1990); và Peter Neuner, Der Laie und das Gottesfolk (Frankfurt am Main: Verlag Josef Knecht, 1988).

[2] Alexandre Faivre, The Emergence of the Laity, 9

[3] Về bản dịch tiếng Anh bức thư này, xem Early Christian Fathers, ed. Cyril Richardson (New York: Macmillan, 1970) 43-73. Về lời bình luận bức thư này liên quan đến giáo dân, xem Alexandre Faivre, The Emergence of the Laity, 15-24.

[4] Về bản dịch tiếng Anh các bức thư của thánh I Nhã, xem Early Christian Fathers, ed. C. Richardson, 87-120. Câu trích dẫn trên đây là ở trang 98-99.

[5] Về bản dịch tiếng Anh cuốn Apology của Justinô (thường gọi là First Apology [Biện giải thứ nhất] để phân biệt với cuốn Apology thứ hai), xem Early Christian Fathers, ed. C. Richardson, 242-289.

[6] Justin, Dialogue with Trypho, 134.3.

[7] Didascalia Apostolorum, II, 26.6-8.

[8] Apostolic Tradition, 9.

[9] On the Veiling of Virgins, 9.1.

[10] Didascalia Apostolorum, 36, 2.3.

[11] Catechism of the Catholic Church (Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo) số 1120.

[12] Lumen Gentium, số 32. Thêm phần nhấn mạnh.

Trở lại Trang Nhà: