CHÂN DUNG  GIÁO LÝ VIÊN

HÔM NAY

Antôn Uông Đại Bằng

(tiếp theo số 32)

3/ Việc huấn luyện phải được tổ chức chu đáo

Huấn luyện viên

 

Cần phải cung ứng các phương thế cần thiết cho việc huấn luyện giáo lý viên. Nhưng vấn đề then chốt trong việc này là làm sao cho có đủ những huấn luyện viên thuần thục. Những huấn luyện viên này đóng vai trò quan trọng và cống hiến phần đóng góp vô cùng quý báu cho Giáo Hội.

 

Nhưng trước tiên, các ứng viên phải xác tín vị Huấn Luyện Viên đầu tiên và đích thực của họ không ai khác hơn là chính Đức Kitô,Vị Tôn Sư Duy Nhất, Đấng huấn luyện họ qua Chúa Thánh Thần (Ga 16, 12-15). Điều này đòi hỏi các ứng sinh phải có tinh thần đức tin, biết cầu nguyện và lắng nghe để Chúa có thể dạy bảo họ. Huấn luyện tông đồ đúng ra là một nghệ thuật được thể hiện trên bình diện siêu nhiên. Và các ứng viên phải chịu trách nhiệm trước hết về sự tăng trưởng nội tâm của bản thân mình, nghĩa là về cách mình đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa.

 

Kế đến là các vị mục tử với tư cách là các nhà giáo dục các giáo lý viên. Đức Giám mục vàcha xứ, xét theo chức năng, là những huấn luyện viên đầu tiên của ứng viên. Rồi đến các nhà giáo dục, hay huấn luyện viên, tức là những vị được Đấng bản quyền giao phó trách nhiệm thực hiện chương trình huấn luyện này.

 

Đầu hết, đó là các vị đặc trách các Trường hay Trung tâm huấn luyện giáo lý viên, sau nữa là những vị đảm trách huấn luyện căn bản và huấn luyện thường xuyên. Các vị này phải có đủ khả năng, có nhiều phẩm tính thiêng liêng, luân lý và sư phạm, được chuẩn bị thích đáng cho nhiệm vụ, có kinh nghiệm cá nhân từng giảng dạy giáo lý, đặc biệt phải có đời sống đạo sâu sắc, để có thể giảng dạy trước nhất qua cung cách sống của mình, phải sống gần gũi với ứng viên, để thông truyền cho họ lòng đạo đức và nhiệt thành. Ước gì mỗi giáo phận cố hết sức để có được một Ban huấn luyện gồm các linh mục, tu sĩ ̃ và giáo dân, là những người có thể được sai đến các giáo xứ để chuẩn bị ứng sinh ngay trong cộng đoàn và chuẩn bị từng người một.

Huấn luyện căn bản

 

Phải tuyệt đối lo cho mọi ứng sinh tối thiểu có được sự giáo dục sơ khởi, nếu không họ không thể đáp ứng đầy đủ sứ vụ của mình. Do đó, cần phải có một số nguyên tắc và chỉ dẫn chi phối các lựa chọn trong việc huấn luyện:

-          Phải có kiến thức cơ bản thuộc môi trường văn hóa của mình, nhờ đó việc đào luyện nhân cách mới có cơ thực hiện.

-          Quan tâm đến thực tại của xã hội và của Giáo Hội: việc huấn luyện các ứng sinh gắn liền với thực tại họ sống và làm việc, cho nên sự quan tâm đến tình hình Giáo Hội và xã hội sẽ cung cấp nhiều điểm quy chiếu cụ thể, và đảm bảo cho việc huấn luyện ở trình độ cao.

-          Huấn luyện liên tục và tiệm tiến: nhờ đó ứng sinh từng bước đạt đến các mục tiêu huấn luyện. Chúng ta không đòi hỏi ứng sinh phải toàn hảo ngay từ đầu, nhưng cần giúp họ tiến bộ liên tục và quân bình.

-          Một phương pháp có quy củ và đầy đủ: quan tâm đến lãnh vực truyền giáo và các nguyên tắc của khoa sư phạm hoàn hảo, như thế phương pháp áp dụng phải:

·      thực nghiệm: có sự đối chiếu với tình hình giáo hội, cũng như tình hình văn hóa và xã hội của môi trường.

·      toàn vẹn: nhắm đến sự tăng trưởng con người về mọi khía cạnh và mọi giá trị của nó.

·      trọng tự do: bảo đảm cho ứng sinh được tự do trong mọi điều kiện.

·      hài hòa: hướng đến cái cốt yếu và dẫn đến sự hiệp nhất nọi tâm.

-          Dự phóng tương lai: khoa sư phạm kiến hiệu giúp cá nhân xây dựng cho mình một dự phóng cho đời sống vốn ấn định các mục tiêu và phương tiện để đạt đến các mục tiêu ấy. Ngay từ đầu mỗi ứng sinh sẽ được huấn luyện để thiết lập cho mình một chương trình qui củ, trong đó họ chăm lo trước tiên đến căn tính và lối sống, rồi đến các phẩm tính cần thiết cho họat động tông đồ.

-          Đối thọai để huấn luyện: tạo điều kiện đối thọai giữa ứng sinh và huấn luyện viên để họ luôn được soi sáng, khuyến khích và đồng hành trong tiến trình huấn luyện. Trong sự đối thọai này, việc linh hướng chiếm một vị trí đặc biệt.

-          Trong cộng đoàn: Ứng sinh có thể dần dần khám phá ra nơi cộng đoàn cách thức thể hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Không có sự huấn luyện tông đồ đích thực nào được thực hiện ngoài cộng đoàn cả.

Huấn luyện thường xuyên

 

Sự tiến triển của con người, sự tăng trưởng trong đời sống kitô hữu, sự canh tân văn hóa và sự tiền triển xã hội đòi hỏi giáo lý viên phải được huấn luyện không ngừng trong suốt thời kỳ họat động tích cực. Bổn phận này cũng liên quan đến các vị lãnh đạo về huấn giáo, đến các giáo lý viên thường, và bao hàm mọi chiều kích huấn luyện như nhân bản, thiêng liêng, giáo lý, và tông đồ. Mục tiêu là tạo được một tổ chức đầy đủ và thúc đẩy những sáng kiến cụ thể, để bất kỳ một giáo lý viên nào cũng được chăm sóc trong việc tăng trưởng liên tục.

 

Trong số các sáng kiến về việc huấn luyện thường xuyên, hàng đầu là các sáng kiến do các Trường hay Trung tâm thực hiện, để tiếp tục chăm sóc các cựu học viên, ít là trong những thời kỳ đầu, qua thư luân lưu và thư riêng, qua việc gửi tài liệu, thăm viếng tại chỗ, những cuộc gặp gỡ để kiểm điểm ngay trong các Trường hay Trung tâm. Những Trường và Trung tâm này cũng thích hợp cho việc tổ chức những khóa canh tân và tu nghiệp cho các giáo lý viên vào bất cứ lúc nào.

 

Nơi nào chưa có Trường hay Trung tâm, nên tìm cách khác để thực hiện chương trình huấn luyện thường xuyên, gồm những khóa ngắn hạn hoặc các cuộc gặp gỡ, hội thảo. Cần tổ chức những chương trình tu nghiệp liên quan đến các khía cạnh khác nhau của nhân cách giáo lý viên. Tu nghiệp về chuyên môn chưa đủ, còn cần ưu tiên cho việc bồi dưỡng căn tính giáo lý viên.

 

Sau cùng, ngoài các sáng kiến có tổ chức, việc huấn luyện thường xuyên nằm trong tầm tay của chính các đương sự. Bởi vậy mỗi giáo lý viên phải để tâm thăng tiến không ngừng và ra sức tìm tòi nghiên cứu với xác tín rằng không ai có thể thay thế mình trong trách nhiệm đầu tiên này.

Phương tiện và cơ cấu huấn luyện

 

Trong số các phương tiện huấn luyện, nổi bật là các Trường hay Trung tâm dành cho giáo lý viên. Các văn kiện của Giáo Hội như Sắc lệnh Ad Gentes hay Thông điệp Redemptoris Missio đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc thành lập và củng cố các cơ sở này. Ước gì mọi Giáo phận ở Việt Nam cũng đều có mỗi nơi ít nhất một cơ sở như thế.

 

Khi nói đến các cơ sở huấn giáo, người ta có thể nghĩ đến những thực tại rất đa dạng: từ những cơ ngơi đồ sộ, có khả năng đón nhận những ứng sinh lâu dài với chương trình họat động được tổ chức chu đáo, cho đến các cơ sở dành cho các nhóm nhỏ, hoặc những khóa ngắn hạn trong giáo phận hay giáo xứ, hoặc chỉ là cuộc gặp gỡ trong một ngày, tùy theo hoàn cảnh mỗi nơi mỗi lúc. Tuy nhiên, cần có sự liên kết giữa các cơ sở hay những hình thức tổ chức tương tự, nhất là trên bình diện quốc gia, do Hội đồng Giám mục đảm trách. Sự liên kết này nên được cổ võ bằng những cuộc gặp gỡ đều đặn giữa tất cả những huấn luyện viên thuọc các nơi, các cấp khác nhau, và bằng việc trao đổi tài liệu giảng dạy. Nhờ đó, chúng ta tiến đến chỗ thống nhất chương trình huấn luyện, và mỗi nơi được củng cố nhờ sự phong phú phát sinh từ kinh nghiệm của những nơi khác.

 

Ngoài ra, cũng nên kể đến các giảng khóa và những cuộc hội thảo hay gặp gỡ dành cho các thành viên Ban giảng huấn hay các giáo lý viên mà các giáo phận, các hạt hay các giáo xứ tổ chức. Đó là những phương thế huấn luyện rất hữu ích, vừa bổ túc vừa giúp nối dài ảnh hưởng của các chương trình huấn luyện trong quá khứ.

 

Ước mong mỗi Giáo phận trước mắt có thể huấn luyện một số giáo sư hoặc ít là các cán bộ khung cho cơ sở huấn giáo của mình.

Cung ứng tài chánh cho công việc huấn giáo.

 

Như hầu hết mọi họat động khác của con người, việc huấn giáo cũng cần có tài chánh để giải quyết các vấn đề cơ sở và phương tiện vật chất cũng như ít nhiều yếu tố nhân sự cho việc huấn luyện đào tạo cũng như việc giảng dạy giáo lý.

a)       Tài chánh cho việc huấn luyện:

 

Trước hết, phải nói đến việc xây dựng cơ sở, trang bị các phương tiện làm việc: thông tin liên lạc, dụng cụ thính thị, phương tiện tham khảo, in ấn, phổ biến tài liệu…nhất là cho các Trường hay Trung tâm, và việc điều hành, tổ chức các khóa huấn luyện, học hỏi hay hội thảo rất đa dạng… Tất cả đều đòi hỏi rất nhiều sức người sức của mà Hội Đồng Giám mục cũng như mỗi Giáo phận phải tài trợ hay tìm cách vận động các nguồn tài trợ khác nhau trong dân Chúa.

b)       Thù lao cho giáo lý viên:

 

Về vấn đề này, như đã nói trong phần I của bài thuyết trình, chúng ta vui mừng biết rằng tuyệt đại đa số các giáo lý viên của chúng ta đều là tình nguyện và không nhận thù lao.

 

Tuy nhiên, không phải là không có những trường hợp vấn đề thù lao cần phải đặt ra. Vì có những nơi không thể tìm ra tu sĩ, hay những giáo lý viên tình nguyện có sẵn nguồn thu nhập cố định, không cần lo việc mưu sinh, hoặc vừa làm việc mưu sinh để tự túc vừa dùng một phần thời gian để lo việc giảng dạy giáo lý. Trong trường hợp này Bộ Truyền giáo dạy rõ ràng: mong rằng việc trả công cho giáo lý viên được thực hiện như là sự công bằng, chứ không phải muốn trả thế nào cũng được. Các giáo lý viên làm trọn thời gian hay bán thời gian phải được trả công theo những nguyên tắc chính xác, do Giáo phận và do giáo xứ lập ra, lưu ý đến điều kiện tài chánh của giáo hội địa phương, đến hoàn cảnh cá nhân và gia đình của mỗi giáo lý viên nói ở đây, trong bối cảnh kinh tế chung của đất nước. Phải đặc biệt quan tâm đến các giáo lý viên ốm đau, mất sức hay già yếu.

 

Tòa Thánh mong ước các tín hữu nhận bảo trợ cho các giáo lý viên (có nhu cầu), nhất là khi họ phục vụ cho chính khu vực mình. Tòa Thánh đặc biệt khuyến khích việc đóng góp tài chánh cho các cơ sở huấn luyện giáo lý viên, vì điều này chắc chắn góp phần vào việc phát triển đời sống kitô hữu trong tương lai gần, vì huấn giáo tích cực và hữu hiệu là nền tảng của việc huấn luyện dân Chúa[1].

 

Và Thánh Bộ khuyên: Nơi đâu có thể thì gia tăng số giáo lý viên tự nguyện, nghĩa lànhững giáo lý viên dấn thân cộng tác một cách ổn định không cần nhận thù lao, vì đã có việc làm mưu sinh hay nguồn lợi cố định.

 

Đồng thời, Thánh Bộ khuyên cần phải giáo dục tín hữu coi ơn gọi giáo lý viên như một sứ vụ hơn là một việc làm để kiếm sống.

 

Quan trọng nhất là phải tìm ra một giải pháp tận căn, đặc biệt đối với việc quản trị khôn ngoan vốn tôn trọng các ưu tiên tông đồ và nhờ việc giáo dục cộng đoàn đóng góp cách nhưng không.

Trách nhiệm cổ võ và huận thuẫn của cộng đoàn dân Chúa

 

Trong cuộc trường chinh nhằm thu phục các môn đệ về cho Chúa, “các giáo lý viên là những tông đồ tiền phương, không có họ, các giáo hội hôm nay đang triển nở đã không được thiết lập”[2], cho nên Bộ Truyền giáo mong ước vai trò các giáo lý viên càng ngày càng được chú ý hơn trong cộng đoàn dân Chúa.

 

Cách đây hơn 10 năm, số giáo lý viên thuộc các miền truyền giáo trên thế giới xê dịch khoảng 250.000 đến 350.000 người(ghi nhận của Thánh Bộ vào năm 1993), và con số này vẫn ngày một tiếp tục gia tăng (thật đáng tiếc chúng tôi không có được con số giáo lý viên hiện thời tại Việt nam). Đương nhiên, tính chất của các cộng đoàn kitô hữu tương lai tùy thuộc vào sự dấn thân của lực lượng giáo lý viên này. Ngày nay, trong bối cảnh của nền thần học giáo dân, hẳn các giáo lý viên lại càng chiếm một vị trí quan trọng hơn nữa. Điều này cho thấy càng phải khẩn trương gia tăng số giáo lý viên bằng cách vận động cho ơn gọi này, và củng cố chất lượng bằng chương trình huấn luyện đầy đủ và liên tục. Chính vì thế, ta mới hiểu tại sao Đức Gioan-Phaolô II nhắn nhủ các vị Giám mục: “Vai trò chính của Chư Huynh là khơi dậy và gìn giữ trong Giáo phận của Chư Huynh một sự say mê dạy giáo lý, sự say mê được thể hiện trong một tổ chức thích hợp và hữu hiệu, vận dụng người, phương tiện, dụng cụ, và cả các tài nguyên cần thiết” [3].

 

Sau cùng, xin hãy lưu ý đến một số công việc hay lãnh vực mà Bộ Truyền Giáo nêu ra trong tài liệu đã dẫn nhiều lần ở đây:

-          Gây ý thức cho cộng đoàn giáo phận và các cộng đoàn giáo xứ, đặc biệt là nơi các linh mục, về tầm quan trọng và vai trò của giáo lý viên.

-          Thiết lập hoặc canh tân các chỉ thị về huấn giáo đối với việc tuyển chọn và huấn luyện giáo lý viên cho rõ ràng và thống nhất chiếu theo chỉ thị của Tòa Thánh.

-          Bảo đảm trang bị tối thiểu cho việc chuẩn bị chuyên môn của các giáo lý viên cấp giáo phận và giáo xứ, để không một ai nhận công tác mà không được chuẩn bị.

-          Đào tạo cán bộ khung cho mỗi giáo phận và giáo xứ …để họ có thể cộng tác với các mục tử trong việc huấn luyện và đồng hành với các giáo lý viên tự nguyện khác.

-          Trợ cấp cho các nhu cầu liên quan đến việc huấn luyện, đến sinh họat và đời sống giáo lý viên, bằng một chương trình kinh tế cẩn trọng gồm cả cộng đoàn.

-          Chăm sóc từ phía các linh mục: cần nhận ra, cổ võ và phối hợp những đoàn sủng khác nhau trong cộng đoàn, đặc biệt theo dõi các giáo lý viên và chia sẻ với họ các nỗi vất vả khi rao giảng Tin Mừng, nhìn nhận họ như những người đặc trách thực sự tác vụ được ủy thác.

 

Chính theo hướng này mà Thánh Bộ khuyến cáo:

 

Phải giáo dục từ trong chủng viện, để hàng giáo sĩ biết nhìn nhận, giúp đỡ và đánh giá đúng mức giáo lý viên, như hình ảnh tuyệt vời của người tông đồ và như cộng tác viên đặc biệt của mình trong vườn nho của Chúa.

Thay lời kết luận

 

Chúng ta, Giáo hội Việt Nam, đang ở vào thời điểm 470 năm kể từ khi Tin Mừng được loan báo lần đầu tiên cho con cháu Lạc Hồng. Cũng bằng một thời gian như thế, nhiều dân tộc đã được Phúc Âm hóa gần như hòan toàn.

 

Đàng khác, hãy xem trường hợp một Giáo hội cùng ở lục địa Á châu với chúng ta, cùng trong vòng ảnh hưởng của các tôn giáo lớn của Phương Đông như chúng ta, cũng từng trải qua một thời gian dài bị cấm cách và bách hại như chúng ta, ngày nay đã bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa trước chúng ta cả vài chục năm, lại đang bị thu hút vào hiện tượng toàn cầu hóa còn hơn chúng ta: Giáo Hội Hàn quốc! Thế mà Giáo Hội này lại đang có một nhịp độ phát triển mau lẹ đến lạ lùng: trong vòng chưa tới hai thập niên trở lại đây, số tín hữu Hàn quốc gia tăng gấp đôi, tức là 100%.

 

Những điều này không thể khiến chúng ta không suy nghĩ. Những sai lầm của Giáo hội trong quá khứ truyền giáo xa xưa cho dù thế nào đi nữa cũng có thể và phải được khắc phục với thời gian, nhất là nếu chúng ta có những nỗ lực thực sự.

 

Nỗ lực đó chính là quyết tâm thực hịên lệnh truyền ra khơi thả lưới của Đức Kitô, với điều kiện là phải có những ngư phủ lành nghề, nhiệt tình và trung kiên, những ngư phủ được rèn luyện kỹ càng trong lò của Thánh Thần, theo những dẫn dắtcủa Ngài qua Công Đồng. Có thể chúng ta phải tốn sức người sức của rất nhiều, nhưng nếu chúng ta quyết tâm thực hiện lệnh truyền đó thì nhất định sẽ có được những mùa màng bội thu. Nếu cần phải nói thêm thì chỉ xin hãy nhớ lời nói nóng bỏng này của Đức Giêsu:

 

“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12, 49)

 

Những gì cần phải làm để cho ngọn lửa ấy được bùng lên, cho dù hoàn cảnh thế nào đi nữa, thực ra lúc nào cũng ở trong tầm tay của chúng ta, và luôn luôn là một thách thức thực sự cho chúng ta.

 

Vấn đề là chúng ta có muốn chiến thắng hay không.

 

Riêng về Đấng ra lệnh truyền thì Ngài đã đoan chắc chiến thắng cho chúng ta rồi: “Thầy đã thắng thế gian!”(Ga 16, 33). ·

Mùa Chay 2004

 

Trở lại Trang Nhà:


 

[1] Xem Gioan-Phaolô II, Catechesi Tradendae, 63, 2.

[2] Xem Gioan-Phaolô II, Catechesi Tradendae, 66.

[3] Xem Gioan-Phaolô II, Carechesi Tradendae, 63, 2.