Thác là thể-phách

Để thay lời từ biệt anh Nguyễn Chí Thiện

Phạm Minh-Tâm

 

Kính anh

Ngay vừa khi được tin anh ra đi, tôi thật đă bàng-hoàng và cảm thấy hụt-hẫng. Bàng-hoàng v́  theo phản-ứng tự-nhiên của tâm-lư sinh ly tử biệt và hụt-hẫng v́ mới chỉ kịp nghĩ rằng thế là bỗng chốc bị mất đi một người bạn trong nghĩa t́nh đồng thanh khí mà không c̣n hy-vọng ǵ gặp lại nhau lần nào nữa trong đời. Rồi từ trong tâm-trạng ấy, những hồi-ức về anh cứ dần dần hiển-hiện.

Có thể nói tôi được biết anh, quư và trọng anh cũng đă cách đây vừa tṛn một phần tư thế-kỷ, cho dù non nửa thời gian đầu  chỉ  là văn kỳ thanh  thôi.   Măi tới cuối năm  1996,  trong lần  đầu tiên  anh sang thăm Úc-châu th́ mới được kiến kỳ h́nh. Rồi có lẽ v́ cái duyên văn nợ bút, hay nói đúng hơn là những đồng cảm trong tâm-thức Việt-Nam đă nối kết nên t́nh bạn như bấy lâu nay, như  những ḍng cảm-nghĩ  tôi đang viết với anh lúc này.

Như đă nhiều lần trong câu chuyện thân-t́nh, chúng ta hay nhắc đến một người mà với anh th́ là bạn tù, c̣n với tôi là một bậc trưởng bối khả kính. Đó là cụ Vũ Thế Hùng.

  Từ ngày gia-đ́nh tôi theo chân đoàn người di-cư vào Miền Nam, măi đến năm 1988,  tôi  mới từ  Sài-g̣n ra  lại Hà-nội. Tất cả những  ǵ đẹp trong kư-ức trẻ thơ  hồi  tám, chín tuổi  hoà với những điều sau đó  tại  Miền Nam học được từ  sách sử  ở  nhà trường, từ  các bậc cha anh truyền-đạt…tất tất thực chẳng c̣n nh́n thấy được bao nhiêu nơi cảnh đời trước mặt. Song tôi đă t́m lại được,  không những là tất cả mà lại  c̣n  đậm nét hơn  qua phong-cách và nhiệt-t́nh hướng-dẫn của cụ ông và cụ bà Vũ Thế Hùng dành cho một kẻ hậu-sinh. 

 Ngày đó, theo từng bước chân đi trên những  đường  phố  ồn-ào, hỗn-tạp của thủ-đô nước cộng hoà xă hội chủ nghĩa, tôi đă được nhắc nhớ lại nguyên vẹn những ǵ của một “Hà-nội 49”, của một chốn cố-đô “ngàn năm văn vật”; đă được dẫn đến nơi này nơi nọ bắt nguồn từ các điạ danh xa-xưa thuộc núi Nùng,  sông Tô-lịch,  thành Đại-la…Và  từ đó lan-man sang hiện-tại với  nhà tù Hoả-ḷ, công cụ đắc-sách của một thời thực-dân đàn-áp  những người yêu nước của một quốc-gia bị trị, mà lúc đó đang được  nhà cầm quyền hiện-hành kế tục sử-dụng cách hoàn-chỉnh hơn. Và rồi do chính cơ-duyên này mà tên anh đă được nhắc đến, thái-độ sống của anh  đă được kể lại và h́nh tượng anh đă được vẽ ra với tôi từ đấy.

 Rồi khi đă sang Úc, trong một lần đi thư-viện t́m sách, t́nh cờ nh́n thấy tập sách nhỏ, in “ronéo” mang tên “Bản chúc thư của một người Việt-Nam”, với trang b́a thô-sơ dăm ba nét phác hoạ một h́nh người gầy c̣m, nằm co-ro như bộ xương cách-trí. Dù tác-giả tập sách đề là khuyết danh nhưng  ngay sau khi đọc nhanh  mấy trang, tôi như có một linh-cảm,  nghĩ ngay đến  anh với những mẩu chuyện và những câu thơ lơm-bơm  đă được nghe ở Hà-nội mấy năm trước.

Cuối cùng, những nghi-nghi hoặc-hoặc cũng được minh-định và tôi đă gặp anh trong chuyến viếng thăm Úc-châu đầu tiên vào năm 1996. Và cũng từ đó khơi nguồn cho mối tương-quan bằng-hữu thân t́nh tới nay nên thường khi trong những lần đến Úc, anh đều không quên dành cho gia-đ́nh chúng tôi một dịp hàn-huyên tâm đắc. 

Người ta tổ-chức đón tiếp anh rộn-ràng song anh đă đến với mọi người bằng sự đơn giản, mộc-mạc và không huênh-hoang. Một điều đặc-biệt là càng quen anh nhiều càng thấy anh lành và hiền đến độ tuyệt đối theo cái nghĩa “chí thiện”. Vậy mà tới khi anh nói về chế-độ toàn-trị của những con người cộng sản Việt-Nam th́ cứ như được thôi thúc bởi một ư-chí kiên-định, anh trở nên mănh-liệt. Đọc những lời anh khẳng định mà rùng ḿnh: “Tôi nghĩ khác, thời đại cộng sản chiếm quyền là một thời đại xáo trộn quái gở nhất, đau thương bi đát nhất, đểu cáng nhất, chất chồng tội ác nhất; tính chất cũng khác hẳn các thời đại trước của lịch sử” (Lời tựa Hoa Điạ Ngục, trang 29).

Ngay trong  buổi đầu sơ-kiến và sơ-giao,  anh đă không dè dặt chia sẻ cho tôi rất nhiều nhận xét  về vài ba người và việc bên nhà mà tôi c̣n nhiều thắc-mắc; về  kinh-nghiệm cần có để nh́n con người cộng sản cho chính xác với một kết-luận “nhiều người chống cộng mà chẳng hiểu cộng sản là ǵ cả”. C̣n nói về ḿnh th́ anh thẳng thắn nhận “Sự tàn bạo, man rợ của cộng sản, tôi hiểu…Tôi vẫn sẽ viết về thời đại cộng sản kỳ quái, dù không hay do bất tài, chứ không phải do đề tài, tôi sẽ dùng văn xuôi để có thể diễn tả cụ thể, chi tiết về những điều tôi đă nghe, đă thấy, đă sống. Nếu kém cỏi về nghệ thuật th́ cũng có thể dùng làm tư liệu để sau này người khác t́m hiểu khi muốn viết về giai đoạn lịch sử của chúng ta” (Lời tựa Hoa Điạ Ngục, trang 29). Có lẽ nhờ vào ư-hướng này mà ngoài thi-phẩm Hoa Địa Ngục, anh c̣n để lại cho đời  tập truyện Hoả Ḷ, nói về cái chốn âm-ty kinh-hoàng ngay tại Hà-nội. Đúng là anh đă hiểu biết về cộng sản rơ hơn ai hết nên kịp thời lưu giữ được tư-liệu sống  trước khi cái nhà tù này được chuyển đi một nơi xa khuất khác. Bây giờ chỉ c̣n cái  bảng hiệu cũ  “Maison Centrale”  được  đơn-thuần dùng như là chứng tích phô bày cho du-khách tới xem tội ác của chế-độ thực dân Pháp mà thôi.

Nếu dựa theo ư t́nh của một nhà thơ Pháp đă nói rằng “Thơ là tiếng kêu tự nhiên của con tim” (La poésie est le cri naturel du coeur) th́ thơ của anh c̣n vượt cao hơn cái tiếng kêu tự nhiên đó để thành tiếng thét tủi hờn, hay đúng hơn là  có đủ tiếng hét, tiếng la, tiếng khóc lẫn trong lời nguyền rủa …của một con người đă  thay cho mọi người để nh́n, để cảm, để suy thấu đáo về thân-phận chung của cả một đất nước. 

Thơ của tôi không phải là thơ

Mà là tiếng cuộc đời nức nở…

Và như một hành giả, một thầy giảng, anh đă cho thơ của ḿnh lên đường thi-hành sứ-vụ:

Chế độ Mác Lê tôi sở dĩ nói nhiều

Tới mức phát nhàm, phát chán!

V́ thực tế không nhàm, không chán

Mà kinh hoàng ai oán lắm, bạn ơi

Tôi sẽ nói khắp nơi

Sẽ nói suốt đời

Nói tới muôn đời

Nói măi

 

Cũng trong lời tựa tác-phẩm Hoa Địa Ngục, anh giải-thích thêm “…trong muôn ngàn sự  việc xẩy ra hàng ngày, trong muôn ngàn tâm tư, cảm xúc, tôi cố chọn lọc những ǵ nổi bật nhất, đập vào tim óc nhất. Coi ḿnh là người ghi chép cảnh thực, t́nh thực của một giai đoạn lịch sử đớn đau tột độ, tôi luôn luôn tôn trọng sự thật, không cường điệu, khuếch đại, bôi đen, hoặc gây cấn hoá. Vả lại, nguyên những sự thật cũng chỉ ghi được phần nào, cần ǵ phải vẽ vời thêm…” (Hoa Địa Ngục, trang 19).

Lần nào gặp lại anh, ở Hoa-kỳ hay ở Úc-châu, tôi cũng chỉ ghi nhận nguyên một dáng vẻ vừa  mệt mỏi, vừa  đơn-sơ; lúc nào cũng nh́n đời  bằng đôi mắt đầy sự ngơ ngác . Lúc nào cũng chỉ một phong-thái đủng-đỉnh.  Cho dù là đứng giữa hào-quang về sự-nghiệp thơ văn  đă thành danh hay trong t́nh huống đang bị thập diện mai phục bởi các mưu-sự muốn đánh phá th́ anh cũng nh́n tất cả bằng phong-thái b́nh thản.  Tôi nh́n ra được những vu-khống thô bạo, những cái mũ chụp dị-dạng đối với anh có thấm ǵ khi so với những tṛ gian trá, phi-luân mà  anh đă chịu suốt hai mươi bảy  năm  đoạ đầy trong các nhà tù cộng sản.  Cái khí hạo-nhiên của kẻ sĩ là đấy.

Kính anh,

Viết đến đây tôi đă thấy nhẹ dần cảm giác hụt hẫng. Đă không nặng t́nh với ư-niệm về sự mất c̣n nữa mà là niềm tin và hy-vọng. Tin vào chân-lư về sự thiện sẽ thắng tà quyền của sự dữ. Hy-vọng vào nguồn ánh sáng Phục-sinh  mà anh đă cùng chúng tôi tin nhận sẽ chiếu rọi vào những xó-xỉnh  tăm tối nhất của ḷng người. Để thêm nhiều anh em chúng ta biết những ǵ là việc bổn-phận ḿnh phải làm cho Quê Hương, cho Giáo-hội. Để đất nước chúng ta được quang phục, dân-tộc chúng ta được sinh tồn trong độc-lập, tự-do và hạnh-phúc thực sự chứ không chỉ là một chiêu bài vô nghĩa đầy mỉa mai.

 Trong những ngày này, Giáo-hội đang bước vào những ngày tưởng-nhớ và cầu nguyện cho những người đă ra đi khỏi cuộc sống. Đây chính là mùa giao-cảm theo giáo-lư về tín-điều "các thánh cùng thông-công". Tôi tin rằng tín-điều này cho chúng ta một xác-quyết về t́nh huynh-đệ trong Đức Ki-tô không thể đứt đoạn. Tôi tin giữa con người với nhau vẫn c̣n một nhịp cầu  giao-hưởng vượt qua hai bờ tử sinh.

Theo quan-niệm của Nho-giáo th́ linh-hồn những bậc hiền-nhân quân-tử sẽ bất-diệt v́ đă được thăng-hoa mà hoà nhập với khí thiêng trong trời đất  thành chính-khí. Tôi tin tưởng giờ đây anh cũng đă thênh-thang trong cơi bất-tử vĩnh hằng như thế, đă trở về  cùng sức thiêng sông núi.  Tử giả thể-phách bất tử giả tinh-thần là vậy. 

Mong anh tiếp tục hiệp-thông với chúng tôi, như anh đă từng viết

Để đánh kẻ thù, tôi không được hèn ngu

Để thắng kẻ thù, tôi phải sống ngàn thu (Hoa Địa Ngục - Nếu ai hỏi).